đặc điểm của cuộc khởi nghĩa lam sơn

Đặc điểm nổi bật của Con số chủ đạo 8 Điểm nổi bật nhất của người Số 8 là tính độc lập, tự tin và là chỗ dựa đáng tin cậy cho người khác. Chính vì vậy, họ thường là người gánh vác là người chủ chốt trong nhóm hoặc trong công ty. Biểu tượng của Bảo Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo có những đặc điểm sau: * Đặc điểm: - Từ một cuộc chiến tranh ở địa phương (nổ ra tại Lam Sơn - Thanh Hóa) phát triển thành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. - Suốt từ đầu đến cuối cuộc khởi nghĩa, tư tưởng nhân nghĩa luôn được đề cao. 1 . những năm đầu cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân lam sơn . em có nhận xét j về tinh thần lược lượng của nghĩa quân lam s HOC24. Lớp học. Tiếng anh thí điểm Đặc điểm của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn: - Phát triển từ cuộc khởi nghĩa nông dân ở địa phương thành cuộc khởi nghĩa dân tộc kết hợp với kháng chiến chống xâm lược (Xiêm, Thanh) bảo vệ vững chắc độc lập tự chủ của dân tộc. - Địa bàn lúc đầu chủ yếu ở vùng núi sau đó phát triển và ngày càng được mở rộng. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo có những đặc điểm sau: * Đặc điểm: - Từ một cuộc chiến tranh ở địa phương (nổ ra tại Lam Sơn - Thanh Hóa) phát triển thành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Frau Sucht Mann Frankfurt Am Main. Answers Nội dung chính Show Answers So sánh đặc điểm nổi bật của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và phong trào Tây Sơn?Bài viết liên quan✅ So sánh khởi nghĩa Lam Sơn với phong trào Tây Sơn – so sánh về lực lượng và thành phần tham gia – so sánh về tài thao lược – so sánh ý nghĩa lịch sửSo sánh khởi nghĩa Lam Sơn với phong trào Tây Sơn – so sánh về lực lượng ѵà thành phần tham gia – so sánh về tài thao lược – so sánh ý nghĩa lịch sử✅ So sánh khởi nghĩa Lam Sơn với phong trào Tây Sơn – so sánh về lực lượng và thành phần tham gia – so sánh về tài thao lược – so sánh ý nghĩa lịch sửSo sánh khởi nghĩa Lam Sơn với phong trào Tây Sơn – so sánh về lực lượng ѵà thành phần tham gia – so sánh về tài thao lược – so sánh ý nghĩa lịch sửVideo liên quan – Khởi nghĩa Lam Sơn+ Lãnh đạo Lê Lợi+ Nhiệm vụ Đánh quân xâm lược Minh+ Tính chất Chiến tranh giải phóng dân tộc+ Ý nghĩa lịch sử Đánh đuổi quân xâm lược Minh, Thống nhất đất nc– Khởi nghĩa Tây Sơn+ Lãnh đạo Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ+ Nhiệm vụ thống nhất đất nước, lật đổ chính quyền Nguyễn – Trịnh – Lê+ Tính chất Cuộc khởi nghĩa nông dân+ Y nghĩa lịch sử – Lật dổ các triều đại phong kiến thối nát Nguyễn – Trịnh – Lê – Đại phá quân Minh, thống nhất đất nc– Khởi nghĩa Lam Sơn+ Lãnh đạo Lê Lợi+ Nhiệm vụ Đánh quân xâm lược Minh+ Tính chất Chiến tranh giải phóng dân tộc+ Ý nghĩa lịch sử Đánh đuổi quân xâm lược Minh, Thống nhất đất nc– Khởi nghĩa Tây Sơn+ Lãnh đạo Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ+ Nhiệm vụ thống nhất đất nước, lật đổ chính quyền Nguyễn – Trịnh – Lê+ Tính chất Cuộc khởi nghĩa nông dân+ Y nghĩa lịch sử – Lật dổ các triều đại phong kiến thối nát Nguyễn – Trịnh – Lê – Đại phá quân Minh, thống nhất đất nc So sánh đặc điểm nổi bật của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và phong trào Tây Sơn?Khởi nghĩa Lam Sơn bắt đầu bằng 1 hội thề Lũng Nhai -1416 và kết thúc cũng bằng 1 hội thề Đông Quan – 1427Có thể bạn quan tâmNhờ rota và tiêm phế cầu bao nhiêu tiền?William và Mary có yêu cầu SAT 2024 không?Có bao nhiêu vecto khác vecto 0 có điểm đầu và điểm cuối là các đỉnh của ngũ giác2 và 1 4 giờ bằng bao nhiêu phút3 phân vàng tây bao nhiêu tiềnPhong trào Tây Sơn là cuộc khởi nghĩa nông dân duy nhất giành được thắng viết liên quanTrình bày tình hình phát triển của kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp thời Lê sơ?Trình bày cuộc chiến đấu trên phòng tuyến sông Như NguyệtTại sao Lý Thường Kiệt lại kết thúc cuộc kháng chiến chống Tống bằng biện pháp giảng hòa?Trình bày văn hóa , giáo dục, khoa học và kĩ thuật thời TrầnTrình bày nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của phong trào Tây Sơn?Trình bày những nét chính về cơ sở kinh tế – xã hội của chế độ phong kiến?Lập bảng thống kê các sự kiện chính của nước Đại Việt thời TrầnVùng đất Sài Gòn đã được sát nhập vào lãnh thổ Đại Việt như thế nào?Xem thêm So sánh quá trình hình thành và phát triển của xã hội phong kiến ở các nước phương Đông và phương Tây để rút ra những điểm khác biệt? ✅ So sánh khởi nghĩa Lam Sơn với phong trào Tây Sơn – so sánh về lực lượng và thành phần tham gia – so sánh về tài thao lược – so sánh ý nghĩa lịch sửSo sánh khởi nghĩa Lam Sơn với phong trào Tây Sơn – so sánh về lực lượng ѵà thành phần tham gia – so sánh về tài thao lược – so sánh ý nghĩa lịch sửHỏiSo sánh khởi nghĩa Lam Sơn với phong trào Tây Sơn – so sánh về lực lượng ѵà thành phần tham gia – so sánh về tài thao lược – so sánh ý nghĩa lịch sửSo sánh khởi nghĩa Lam Sơn với phong trào Tây Sơn – so sánh về lực lượng ѵà thành phần tham gia– so sánh về tài thao lược– so sánh ý nghĩa lịch sửĐápngockhue– Khởi nghĩa Lam Sơn+ Lãnh đạo Lê Lợi+ Nhiệm vụ Đánh quân xâm lược Minh+ Tính chất Chiến tranh giải phóng dân tộc+ Ý nghĩa lịch sử Đánh đuổi quân xâm lược Minh, Thống nhất đất nc– Khởi nghĩa Tây Sơn+ Lãnh đạo Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ+ Nhiệm vụ thống nhất đất nước, lật đổ chính quyền Nguyễn – Trịnh – Lê+ Tính chất Cuộc khởi nghĩa nông dân+ Y nghĩa lịch sử – Lật dổ các triều đại phong kiến thối nát Nguyễn – Trịnh – Lê – Đại phá quân Minh, thống nhất đất ncngockhue– Khởi nghĩa Lam Sơn+ Lãnh đạo Lê Lợi+ Nhiệm vụ Đánh quân xâm lược Minh+ Tính chất Chiến tranh giải phóng dân tộc+ Ý nghĩa lịch sử Đánh đuổi quân xâm lược Minh, Thống nhất đất nc– Khởi nghĩa Tây Sơn+ Lãnh đạo Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ+ Nhiệm vụ thống nhất đất nước, lật đổ chính quyền Nguyễn – Trịnh – Lê+ Tính chất Cuộc khởi nghĩa nông dân+ Y nghĩa lịch sử – Lật dổ các triều đại phong kiến thối nát Nguyễn – Trịnh – Lê – Đại phá quân Minh, thống nhất đất ncngockhue– Khởi nghĩa Lam Sơn+ Lãnh đạo Lê Lợi+ Nhiệm vụ Đánh quân xâm lược Minh+ Tính chất Chiến tranh giải phóng dân tộc+ Ý nghĩa lịch sử Đánh đuổi quân xâm lược Minh, Thống nhất đất nc– Khởi nghĩa Tây Sơn+ Lãnh đạo Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ+ Nhiệm vụ thống nhất đất nước, lật đổ chính quyền Nguyễn – Trịnh – Lê+ Tính chất Cuộc khởi nghĩa nông dân+ Y nghĩa lịch sử – Lật dổ các triều đại phong kiến thối nát Nguyễn – Trịnh – Lê – Đại phá quân Minh, thống nhất đất nc ✅ So sánh khởi nghĩa Lam Sơn với phong trào Tây Sơn – so sánh về lực lượng và thành phần tham gia – so sánh về tài thao lược – so sánh ý nghĩa lịch sửSo sánh khởi nghĩa Lam Sơn với phong trào Tây Sơn – so sánh về lực lượng ѵà thành phần tham gia – so sánh về tài thao lược – so sánh ý nghĩa lịch sửHỏiSo sánh khởi nghĩa Lam Sơn với phong trào Tây Sơn – so sánh về lực lượng ѵà thành phần tham gia – so sánh về tài thao lược – so sánh ý nghĩa lịch sửSo sánh khởi nghĩa Lam Sơn với phong trào Tây Sơn – so sánh về lực lượng ѵà thành phần tham gia– so sánh về tài thao lược– so sánh ý nghĩa lịch sửĐápngockhue– Khởi nghĩa Lam Sơn+ Lãnh đạo Lê Lợi+ Nhiệm vụ Đánh quân xâm lược Minh+ Tính chất Chiến tranh giải phóng dân tộc+ Ý nghĩa lịch sử Đánh đuổi quân xâm lược Minh, Thống nhất đất nc– Khởi nghĩa Tây Sơn+ Lãnh đạo Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ+ Nhiệm vụ thống nhất đất nước, lật đổ chính quyền Nguyễn – Trịnh – Lê+ Tính chất Cuộc khởi nghĩa nông dân+ Y nghĩa lịch sử – Lật dổ các triều đại phong kiến thối nát Nguyễn – Trịnh – Lê – Đại phá quân Minh, thống nhất đất ncngockhue– Khởi nghĩa Lam Sơn+ Lãnh đạo Lê Lợi+ Nhiệm vụ Đánh quân xâm lược Minh+ Tính chất Chiến tranh giải phóng dân tộc+ Ý nghĩa lịch sử Đánh đuổi quân xâm lược Minh, Thống nhất đất nc– Khởi nghĩa Tây Sơn+ Lãnh đạo Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ+ Nhiệm vụ thống nhất đất nước, lật đổ chính quyền Nguyễn – Trịnh – Lê+ Tính chất Cuộc khởi nghĩa nông dân+ Y nghĩa lịch sử – Lật dổ các triều đại phong kiến thối nát Nguyễn – Trịnh – Lê – Đại phá quân Minh, thống nhất đất ncngockhue– Khởi nghĩa Lam Sơn+ Lãnh đạo Lê Lợi+ Nhiệm vụ Đánh quân xâm lược Minh+ Tính chất Chiến tranh giải phóng dân tộc+ Ý nghĩa lịch sử Đánh đuổi quân xâm lược Minh, Thống nhất đất nc– Khởi nghĩa Tây Sơn+ Lãnh đạo Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ+ Nhiệm vụ thống nhất đất nước, lật đổ chính quyền Nguyễn – Trịnh – Lê+ Tính chất Cuộc khởi nghĩa nông dân+ Y nghĩa lịch sử – Lật dổ các triều đại phong kiến thối nát Nguyễn – Trịnh – Lê – Đại phá quân Minh, thống nhất đất nc Khách Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời. Tất cả Câu hỏi hay Chưa trả lời Câu hỏi vip Dưới đây là một vài câu hỏi có thể liên quan tới câu hỏi mà bạn gửi lên. Có thể trong đó có câu trả lời mà bạn cần! Ma Hậu 23 tháng 4 2018 lúc 2213 Tất cả Toán Vật lý Hóa học Sinh học Ngữ văn Tiếng anh Lịch sử Địa lý Tin học Công nghệ Giáo dục công dân Âm nhạc Mỹ thuật Tiếng anh thí điểm Lịch sử và Địa lý Thể dục Khoa học Tự nhiên và xã hội Đạo đức Thủ công Quốc phòng an ninh Tiếng việt Khoa học tự nhiên Tuần Tháng Năm 32 GP 19 GP 18 GP 15 GP 12 GP 12 GP 11 GP 9 GP 9 GP 6 GP Khởi nghĩa Lam Sơn là gì? Khởi nghĩa Lam Sơn diễn ra khi nào? Diễn biến, kết quả, ý nghĩa ra sao? Là câu hỏi của rất nhiều bạn đọc. Trong bài viết dưới đây THPT Nguyễn Đình Chiểu sẽ giới thiệu đến các bạn toàn bộ kiến thức về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi khởi xướng. Mời các bạn cùng theo dõi nội dung chi tiết bài viết dưới đang xem Khởi nghĩa Lam Sơn Nguyên nhân, diễn biến, ý nghĩa thắng lợi Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dưới sự lãnh đạo của Bình Định vương Lê Lợi và Bộ thống soái tài ba kết thúc thắng lợi, chấm dứt 21 năm thống trị của chính quyền phong kiến nhà Minh, mở ra một giai đoạn phát triển mới của chế độ quân chủ tập quyền trong lịch sử Việt Nam với vương triều Lê Sơ 1428-1527. 1. Nguyên nhân cuộc khởi nghĩa Lam Sơn *Nguyên nhân bùng nổ – Với những âm mưu thâm độc và tội ác của chế độ thống trị nhà Minh, trong vòng 20 năm đô hộ nước ta, nhà Minh đã làm cho sự khuungr hoảng của xã hội ngày càng thêm sâu sắc, đất nước bị tàn phá, lạc hậu, nhân dân lâm vào cảnh lầm than, điêu đứng. – Chế độ thống trị của nhà Minh không thể tiêu diệt được tinh thần đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta, với lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc ta đã cầm vũ khí đứng lên đấu tranh theo sự chỉ huy của các quý tộc nhà Trần. 2. Đặc điểm của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn – Từ một cuộc chiến tranh ở địa phương nổ ra tại Lam Sơn – Thanh Hóa phát triển thành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. – Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn có căn cứ kháng chiến. – Suốt từ đầu đến cuối cuộc khởi nghĩa, tư tưởng nhân nghĩa luôn được đề cao. Tư tưởng của “Bình Ngô đại cáo” là tư tưởng xuyên suốt phong trào đấu tranh. “Đem đại nghĩa để thắng hung tànLấy chí nhân để thay cường bạo” Khi giặc rơi vào thế cùng quẫn, nghĩa quân đã “thể đức hiếu sinh” cấp ngựa, thuyền cho chúng rút về nước. 3. Diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn Giai đoạn 1 Quá trình nghĩa quân Lam Sơn hoạt động ở Thanh Hóa Mùa xuân năm 1418, người anh hùng Lê Lợi đã cùng với 50 tướng văn tướng võ và một số chí sĩ như Nguyễn Lý, Lê Văn An… phất cờ khởi nghĩa. Ông tự xưng là Bình Định Vương và kêu gọi nhân dân đánh quân Minh cứu nước. Lúc này, quân Minh cai trị đất nước ta với hơn 5 vạn quân lính với chế độ hà khắc và tàn đoạn đầu này được coi là thời kì khó khăn nhất của cuộc khởi nghĩa khi vừa lực lượng mỏng, quân lương thì thiếu thốn. Đây là nguyên nhân khiến nghĩa quân của Lê Lợi giai đoạn này chỉ thắng được những trận nhỏ. Do lực lượng quá chênh lệch cũng như điều kiện khó khăn, nghĩa quân Lam Sơn nhiều lần bị quân Minh vây đánh. Điển hình là ba lần trong năm 1418, 1419 và 1422 nghĩa quân phải chạy lên núi Chí Linh. Tướng sĩ Lê Lai phải đóng giả Lê Lợi để nhử quân Minh giúp nghĩa quân có đường thoát, trong một lần quân Minh vay gắt tại núi Chí Linh. Bên cạnh đó, một số tù trưởng miền núi và quân nước Lào đi theo quân Minh đã gây khó khăn cho nghĩa quân Lam Sơn. Năm 1422, Lê Lợi phải xin giảng hòa với quân Minh trước tình thế hết sức khó khăn đó. Đến năm 1423, khi lực lượng đã củng cố, lấy lí do sứ giả bị quân Minh bắt giữ, Lê Lợi cắt đứt giảng hòa. Diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bước vào giai đoạn mới. Giai đoạn 2 Nghĩa quân Lam Sơn tiến vào Nam Lê Lợi quyết định đưa quân vào vùng Nghệ An trong năm 1424. Đây được xem là bước tiến mới trong chiến thuật lãnh đạo của Bình Định Vương. Nghĩa quân Lam Sơn đánh bại thành Đa Căng, đồng thời đánh lui quân cứu viện của Cầm Bành. Sau đó, nghĩa quân của Lê Lợi tiếp tục đánh bại Trà Lân. Tướng quân Minh là Trần Trí bị thua liền mấy trận phải rút về thành cố thủ khi Đinh Liệt được Lê Lợi giao mang quân vào đánh Nghệ An. Theo lệnh của Lê Lợi, Đinh Liệt đem quân đánh Diễn Chau vào tháng 5 năm 1425. Sau khi giao chiến, quân Minh thua phải chạy về vùng Tây Đô Thanh Hóa ngày nay. Tiếp đó, các tướng như Lê Triện, Lưu Nhân Chú ra tiếp viện cho Đinh Lễ đánh Tây Đô, quân Minh lại bị thua phải rút về thành để cố thủ. Các thành trì từ Thanh Hóa đều bị Lê Lợi làm chủ từ cuối năm 1425. Giai đoạn 3 Nghĩa quân Lam Sơn giải phóng Đông Quan Trong giai đoạn này, nghĩa quan liên tục tiến đánh và giành chiến thắng ở nhiều trận khác nhau. Chiến thắng Tốt Động – Chúc Động Tháng 8/1426, Lê Lợi chia nghĩa quân làm 3 cánh đánh vào bắc với 3 hướng Tây Bắc, Đông Bắc và Đông Quan. Tướng Lê Triện của nghĩa quân đánh bại Trần Trí ở Đông Quan. Sau đó quân Vân Nam của nhà Minh đến tiếp viện thì Lê Triện chia quân cho các tướng khác để đánh quân Vân 1426, trước tình thế nguy cấp đó, quân Minh đến tiếp viện cùng với thổ minh bản xứ đến cứu giúp quân Minh dưới sự chỉ huy của Vương Thông và Mã Anh. Tuy nhiên, mặc dù quân Minh được tiếp viện nhưng tướng Đỗ Bí của nghĩa quân Lam Sơn vẫn đánh bại Mã Kỳ ở Từ Liêm. Do Vương Thông đã phòng bị kĩ lưỡng nên tướng Lê Triện của nghĩa quân bị thuê đành rút về Cao Bộ và cầu cứu đến tướng Nguyễn Xí. Tướng Đinh Lễ và Nguyễn Xí dụ quân Vương Thông vào trận Tốt Động, Chúc Động khiến quân Vương Thông thua to phải chạy về cố thủ ở Đông Quan. Sau đó, Vương Thông nghĩ kế đòi lập con cháu nhà Trần lên làm vua Trần Cảo để tương kế tựu kế đánh lại nghĩa quân Lam Sơn. Tuy nhiên, Lê Lợi đã phát hiện kịp thời và cắt đứt giảng hòa. Để thống nhất đất nước, Lê Lợi sai quân đi chiếm các thành như Điêu Diêu, Tam Giang và Xương Giang, Kỳ Ôn. Lê Lợi chiếm được thành Đông Quan vào năm 1427. Cuối năm 1427, 15 vạn quân Minh dưới sự chỉ huy của Liễu Thăng tiến sang nước ta. Lê Lợi dùng mưu trí cho đánh cánh quân của Liễu Thăng trước để làm nản lòng địch. Các nhánh quân Minh đều bị thua dưới sự chỉ huy của Lê Lơi, các tướng Minh người bị giết, người tự vẫn, chỉ có Hoàng Phúc sống sót được thả về. Quân Lam Sơn phục kích quân của Mộc Thạch khiến hắn thua to vào ngày 14/12/ Thông sợ quá bèn xin giảng hòa, sau đó hai bên tiến hành làm lễ thề tại thành Đông Quan. Đến tháng chạp năm 1427, quân Minh rút về nước, cuộc khởi nghĩa hoàn toàn thắng lợi, diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã kết thúc. 4. Tóm tắt diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn 1418-1427 – Tháng 2 – 1418, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, tự xưng là Bình Định Vương. – Giữa năm 1418, quân Minh huy động một lực lượng mạnh, quyết bắt giết bằng được Lê Lợi. Trước tình hình nguy cấp, Lê Lai đã cải trang làm Lê Lợi và hi sinh. Quân Minh tưởng rằng đã giết được Lê Lợi nên rút quân. – Cuối năm 1421, hơn 10 vạn quân Minh mở cuộc tấn công vào căn cứ của nghĩa quân. Lê Lợi lại phải rút quân lên núi Chí Linh. – Mùa hè năm 1423, Lê Lợi đề nghị tạm hoà và được quân Minh chấp thuận. Tháng 5 – 1423, nghĩa quân trở về căn cứ Lam Sơn. – Năm 1424, nghĩa quân tiến đánh Khả Lưu, giải phóng Nghệ An. – Từ tháng 10-1424 đến tháng 8-1425, nghĩa quân đã giải phóng được Tân Bình và Thuận Hóa. Tháng 8 – 1425, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân huy quân tiến vào giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa. – Cuối năm 1426, nghĩa quân tiến quân ra Bắc theo 3 đạo, mở rộng phạm vi hoạt động. Nghĩa quân chiến thắng nhiều trận lớn, quân Minh phải rút vào thành Đông Quan cố thủ. – Cuối năm 1426, chiến thắng tại trận Tốt Động – Chúc Động. – Tháng 10 – 1427, chiến thắng tại trận Chi Lăng – Xương Giang. Cuộc khởi nghĩa hoàn toàn thắng lợi. 5. Kết quả của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn Sau diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, kết quả thu được là tiêu diệt 5 vạn quân Minh, bắt sống 1 vạn tên, Vương Thông phải tháo chạy về Đông Quan. Các tướng Minh như Lương Minh, Liễu Thăng cùng hàng vạn tên giặc đã bị giết. Mộc Thạch phải tháo chạy, Vương Thông phải xin hàng và chấp nhận mở hội thề ở Đông Quan. Đến năm 1428, nước ta đã sạch bóng quân Minh. Chấm dứt 20 năm độ hộ phong kiến của nhà Minh => Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã thắng lợi vẻ vang và mang đến ý nghĩa lịch sử to lớn. 6. Nguyên nhân thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn Lòng yêu nước nồng nàn, niềm tự hào sâu sắc, ý chí kiên cường quyết tâm giành lại được độc lập của nhân dân ta. Sự lãnh đạo đúng đắn, tài giỏi của bộ chỉ huy nghĩa quân, đứng đầu là Lê Lợi, Nguyên Trãi. Chiến lược, chiến thuật đánh giặc đúng đắn, sáng tạo của bộ chỉ huy nghĩa quân. Tinh thần chiến đấu ngoan cường của nghĩa quân. 7. Ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn Sự thắng lợi của khởi nghĩa đã chấm dứt hơn 20 năm đô hộ của triều đình phong kiến nhà Minh. Mở ra một thời kì mới của đất nước ta thời Lê Sơ Đập tan những âm mưu xâm lược đô hộ của nhà Minh. Thể hiện tinh thần yêu nước của nhân dân ta, lòng dũng cảm và tinh thần chiến đấu bất khuất cũng như tinh thần nhân đạo sáng ngời của dân tộc. Đăng bởi THPT Nguyễn Đình Chiểu Chuyên mục Tài Liệu Lớp 7 Tháng Chín 5, 2022 1202 sáng So sánh đặc điểm nổi bật của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và phong trào Tây Sơn? Khởi nghĩa Lam Sơn bắt đầu bằng 1 hội thề Lũng Nhai -1416 và kết thúc cũng bằng 1 hội thề Đông Quan – 1427 Phong trào Tây Sơn là cuộc khởi nghĩa nông dân duy nhất giành được thắng lợi. Bối cảnh lịch sử Bối cảnh Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn Hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa Lực lượng của quân Minh và lực lượng ban đầu của quân khởi nghĩa Lam Sơn Quá trình quân khởi nghĩa Lam Sơn hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa Tiến vào Nam Giải phóng Đông Quan Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động Lập Trần Cảo Vây thành Đông Quan Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang Hội thề Đông Quan Vấn đề tù binh người Minh Lê Lợi lên ngôi vua Phong thưởng Vai trò của hỏa lực trong khởi nghĩa Lam Sơn Tham khảo Sách trích dẫn Khởi nghĩa Lam Sơn 1418-1427 chữ Nôm 起義藍山 là cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược về nước do Lê Lợi lãnh đạo và kết thúc bằng việc giành lại độc lập cho nước Đại Việt và sự thành lập nhà Hậu nghĩa Lam Sơn gồm 3 giai đoạn lớn hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa 1418-1423, tiến vào phía nam 1424-1425 và giải phóng Đông Quan 1426-1427. Trong giai đoạn đầu, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn gặp rất nhiều khó khăn, thường phải hứng chịu các cuộc càn quét của quân Minh, mặc dù vẫn có những trận họ đánh thắng quân Minh và họ cũng từng đánh bại được quân Ai Lao cấu kết với quân Minh. Quân khởi nghĩa bắt đầu giành thế thắng khi Lê Lợi tiến quân ra đất Nghệ An vào năm 1424. Họ đạt được nhiều thắng lợi to lớn, đỉnh điểm là đại thắng ở Tân Bình, Thuận Hóa. Cuối cùng, vào năm 1426, giữa lúc quân khởi nghĩa đang trên đà thắng lợi và tiếng tăm của Lê Lợi lên cao, quân khởi nghĩa tiến đánh thành Đông Quan, và đánh tan nát quân Minh trong trận Tốt Động - Chúc Động. Bước sang năm 1427, nghĩa quân đập tan tác 10 vạn viện binh của đối phương trong trận Chi Lăng - Xương Giang, giết chết viên chỉ huy quân Minh là Liễu Thăng. Họ thu được nhiều chiến mã, lại còn bắt sống và tiêu diệt được nhiều tướng Minh. Cuối cùng, người Minh phải giảng hòa và thoái binh về nước, khiến cho nước Đại Việt không còn một mống quân xâm lăng. Một văn thần trong quân khởi nghĩa là Nguyễn Trãi thừa lệnh của Lê Lợi đã viết bài Bình Ngô đại cáo để tuyên cáo cho toàn quốc biết về chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn. Bối cảnh lịch sử Bối cảnhKhởi nghĩa Lam Sơn nổ ra trong bối cảnh rất khó khăn. Nhiều cuộc nổi dậy chống Minh, điển hình là nhà Hậu Trần, đã bị dẹp một cách tàn khốc. Liên tiếp 2 vua nhà Hồ, một vua nhà Hậu Trần bị bắt về bắc, vua Trùng Quang và các tướng đều tử tiết. Trương Phụ tàn sát những người lính theo quân khởi nghĩa và cả dân thường rất tàn bạo chặt đầu, đốt xác, cuốn ruột vào cây... để khủng bố tinh thần người Giáp Ngọ 1414, tháng Giêng, tướng nhà Minh là Trương Phụ, Mộc Thạnh hoàn thành xong việc đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa của nhà Hậu Trần, bắt đầu tiến hành việc cai trị Đại Việt. Sự cai trị tàn bạo, khắc nghiệt của nhà Minh khiến người dân Đại Việt rất oán hận Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam SơnLê Lợi là phụ đạo Lam Sơn tên gọi thổ tù, nối đời làm hào trưởng Lam Sơn, trước theo vua Trùng Quang, làm chức Kim ngô Tướng quân, sau Hoàng Phúc chiêu dụ đến cho làm Thổ quan Tuần kiểm, Lê Lợi không theo. Lê Lợi ẩn dấu ở núi rừng làm nghề cày cấy; tự mình đọc sách kinh sử, nhất là càng chuyên tâm về các sách Thao Lược; hậu đãi các tân khách; chiêu nạp kẻ trốn, kẻ làm phản; ngầm nuôi kẻ mưu trí; bỏ của, phát thóc để giúp cho kẻ côi cút, nghèo nàn; hậu lễ, nhún lời, để thu nạp anh hùng hào kiệt; đều được lòng vui vẻ của họ. Những hào kiệt như Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú, Trịnh Vô, Vũ Uy, Lê Liễu và Lê Xa Lôi nối tiếp đến quy phục. Lê Lợi thấy người Minh tàn ngược, khẳng khái nói “ Trượng phu sinh ở đời phải nên cứu nạn lập công, sao lại chịu khổ làm tôi tớ người ta ” — Việt sử tiêu án Lại thường lời lẽ nhún nhường, đem nhiều vàng, bạc, của báu, đút lót cho các tướng nhà Minh là Trương Phụ, Trần Trí, Sơn Thọ, Mã Kỳ; mong họ không hãm hại mình để để chờ thời cơ. Ngụy quan người Việt Lương Nhữ Hốt bàn với tướng Minh, nói rằng Chúa Lam sơn chiêu vong, nạp bạn, đãi quân lính rất hậu, chí nó chẳng nhỏ. Nếu thuồng luồng gặp được mây mưa, thì tất không phải là vật ở trong ao đâu!. Nên sớm trừ đi, đừng để sau sinh vạNhà Minh tin lời Lương Nhữ Hốt, bức bách Lê Lợi gấp gáp, Lê Lợi bèn đại hội tướng sĩ, bàn việc khởi binh. Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Thân, năm 1418 Lê Lợi khởi binh ở Lam Sơn, xưng là Bình Định vương, cử cháu là Lê Thạch làm Tướng quốc, truyền hịch đi các nơi cùng chống quân Minh. Cuộc khởi nghĩa mở đầu được Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô đại cáoVừa khi cờ nghĩa dấy lênChính lúc quân thù đang mạnh... Tuấn kiệt như sao buổi sớmNhân tài như lá mùa thu Hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa Lực lượng của quân Minh và lực lượng ban đầu của quân khởi nghĩa Lam SơnBia Vĩnh Lăng do Nguyễn Trãi soạn nói về cuộc Khởi nghĩa Lam SơnMùa xuân năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Lê Văn An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Nguyễn Lý... tất cả 50 tướng văn và tướng võ chính thức phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn trong đó 19 người đã từng tham gia hội thề Lũng Nhai, năm 1416, xưng là Bình Định Vương, kêu gọi dân Việt đồng lòng đứng lên đánh quân xâm lược nhà Minh cứu nước. Địa danh Lam Sơn nay thuộc huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa. Theo sách Lam Sơn thực lục, buổi đầu khởi nghĩa Lam Sơn “ Nguyên trước Nhà vua kinh-doanh việc bốn phương, Bắc đánh giặc Minh, Nam đuổi quân Lào, mình trải trăm trận, đến đâu được đấy, chỉ dùng có quan võ là bọn Lê Thạch, Lê Lễ, Lê Sát, Lê Vấn, Lê Lý, Lê Ngân, ba mươi lăm người; quan văn là bọn Lê văn Linh, Lê quốc Hưng; cùng những quân-thân như cha, con; hai trăm thiết-kỵ, hai trăm nghĩa-sĩ, hai trăm dũng-sĩ và mười bốn thớt voi. Còn bọn chuyên-chở lương-thảo, cùng già yếu đi hộ-vệ vợ con, cũng chỉ hai nghìn người mà thôi. ” — Lam Sơn thực lục Khi ấy, quân Minh đã thiết lập được sự cai trị trên đất Đại Việt, với 5 vạn quân, voi ngựa hàng trăm con. Quá trình quân khởi nghĩa Lam Sơn hoạt động ở vùng núi Thanh HóaThời kỳ hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa là giai đoạn khó khăn nhất của cuộc khởi nghĩa. Trong thời gian đầu, lực lượng của quân Lam Sơn chỉ có vài ngàn người, lương thực thiếu thốn, thường chỉ thắng được vài trận nhỏ và hay bị quân Minh đánh quân Minh vây đánh nhiều trận, quân Lam Sơn khốn đốn ba lần phải rút chạy lên núi Chí Linh những năm 1418, 1419, 1422 và một lần cố thủ ở Sách Khôi năm 1422. Một lần bị quân Minh vây gắt ở núi Chí Linh có sách ghi năm 1418, có sách ghi năm 1419, quân sĩ hết lương, một nghĩa sĩ của Lê Lợi là Lê Lai theo gương Kỷ Tín nhà Tây Hán phải đóng giả làm Lê Lợi, dẫn quân ra ngoài nhử quân Minh. Quân Minh tưởng là bắt được chúa Lam Sơn nên lơi lỏng phòng bị, Lê Lợi và các tướng lĩnh thừa cơ mở đường khác chạy thoát. Lê Lai bị quân Minh giải về Đông Quan và bị quân Minh, Lê Lợi và quân Lam Sơn còn phải đối phó với một bộ phận các tù trưởng miền núi tại địa phương theo nhà Minh và quân nước Ai Lao Lào bị xúi giục hùa theo. Dù gặp nhiều khó khăn, quân Lam Sơn mấy lần đánh bại quân Ai Lao có lực lượng đông hơn. Tuy nhiên do lực lượng chưa đủ mạnh nên Lê Lợi thường cùng quân Lam Sơn phải ẩn náu trong rừng núi, nhiều lần phải ăn rau củ và măng tre lâu ngày; có lần ông phải giết cả voi và ngựa chiến của mình để cho tướng sĩ tình thế hiểm nghèo, Lê Lợi phải xin giảng hòa với quân Minh năm 1422. Đến năm 1423, khi thực lực được củng cố, lại thấy quân Minh bắt giữ sứ giả, Lê Lợi liền tuyệt giao cắt đứt giảng hoà. Tiến vào NamTheo kế của Nguyễn Chích, năm 1424 Lê Lợi quyết định đưa quân vào đồng bằng Nghệ An. Tiến vào Nghệ An là một bước ngoặt về chiến thuật trong cuộc khởi nghĩa Lam đường đi, quân Lam Sơn hạ thành Đa Căng Bất Căng, Thọ Xuân do Lương Nhữ Hốt giữ, đánh lui quân cứu viện của viên tù trưởng địa phương theo quân Minh là Cầm Bành. Sau đó quân Lam Sơn đánh thành Trà Lân. Tướng Minh là Trần Trí mang quân từ Nghệ An tới cứu Cầm Bành, bị quân Lam Sơn đánh lui. Lê Lợi vây Cầm Bành, Trần Trí đóng ngoài xa không dám cứu. Bị vây ngặt lâu ngày, Cầm Bành phải đầu Lợi sai Đinh Liệt mang quân vào đánh Nghệ An, lại mang quân chủ lực cùng tiến vào, Trần Trí bị thua liền mấy trận phải rút vào thành cố An, Phương Chính từ Đông Quan thuộc Đông Hưng, Thái Bình vào cứu Trần Trí ở Nghệ An, Trí cũng mang quân ra ngoài đánh. Lê Lợi dùng kế nhử địch đến sông Độ Gia phá tan. Trần Trí chạy về Đông Quan, còn An và Chính lại chạy vào thành Nghệ 5 năm 1425, Lê Lợi lại sai Đinh Lễ đem quân ra đánh Diễn Châu, quân Minh thua chạy về Tây Đô Thanh Hóa. Sau đó ông lại điều Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Triện tiếp ứng cho Đinh Lễ đánh ra Tây Đô, quân Minh ra đánh lại bị thua phải rút vào cố thủ trong Lợi một mặt siết vòng vây quanh thành Nghệ An và Tây Đô, mặt khác sai Trần Nguyên Hãn, Doãn Nỗ, Lê Đa Bồ đem quân vào nam đánh Tân Bình, Thuận Hóa. Tướng Minh là Nhậm Năng ra đánh bị phá tan. Sau Lê Lợi lai sai Lê Ngân, Lê Văn An mang thủy quân tiếp ứng cho Trần Nguyên Hãn chiếm đất Tân Bình, Thuận Hoá. Quân Minh phải rút vào cố thủ vậy đến cuối năm 1425, Lê Lợi làm chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào, các thành địch đều bị bao vây. Giải phóng Đông Quan Chiến thắng Tốt Động - Chúc ĐộngTháng 8 năm 1426, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện ra phía Tây bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông bắc; Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra đánh Đông Triện tiến đến gần Đông Quan gặp Trần Trí kéo ra, liền đánh bại Trí. Nghe tin viện binh nhà Minh ở Vân Nam sắp sang, Triện chia quân cho Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả ra chặn quân Vân Nam, còn Triện và Đỗ Bí hợp với quân Đinh Lễ, Nguyễn Xí đánh Đông quân từ Vân Nam do Vương An Lão chỉ huy kéo sang, nhưng bị Phạm Văn Xảo phá tan. An Lão chạy về cố thủ ở thành Tam Giang. Trần Trí thấy mất viện binh bèn cầu viện Lý An ở Nghệ An. Lý An và Phương Chính để Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, mang quân vượt biển ra cứu Đông Quan. Quân Lam Sơn định đón đường ngăn chặn nhưng không được. Lê Lợi liền giao cho Lê Văn An, Lê Văn Linh vây thành, còn mình kéo đại quân ra đối phó lại tình hình nguy cấp, năm 1426, nhà Minh cho huy động quân từ nhiều tỉnh phía nam tiến vào tiếp viện. Các quan lại nhà Minh tại Việt Nam cũng được lệnh mộ thêm thổ binh bản xứ hỗ trợ. Thêm vào đó, nhà Minh cho gửi thêm hỏa khí sang trợ chiến, và các tướng Minh tại Việt Nam cũng rút hết quân làm đồn điền trồng lúa lấy lương - khoảng thổ binh bản xứ để đối phó với quân nổi dậy. Trần Trí, Phương Chính bị cách chức, bị đặt dưới quyền Vương Thông sai khiến để lấy công chuộc tội. Tại Vân Nam, Mộc Thạnh cũng được lệnh tuyển mộ 15 ngàn bộ binh và 3 ngàn cung thủ chuẩn bị sẵn sàng. Từ Quảng Tây, tướng Minh là Cố Hưng Tổ Gu Xing-zu được lệnh đưa quân bản bộ sang tiếp ứng với Vương Thông, Mã Anh mang quân sang tiếp viện, hợp với quân ở Đông Quan được 10 vạn, chia cho Phương Chính, Mã Kỳ ra chặn đánh quân Lam Sơn. Lê Triện, Đỗ Bí đánh bại Mã Kỳ ở Từ Liêm, lại đánh luôn cánh quân của Chính. Cả hai tướng thua chạy, về nhập với quân Vương Thông ở Cổ Sở. Lê Triện lại tiến đánh Vương Thông, nhưng Thông đã phòng bị, Triện bị thua phải rút về Cao Bộ, sai người cầu cứu Nguyễn Lễ, Nguyễn Xí đem quân đến đặt phục binh ở Tốt Động, Chúc Động các địa danh này ngày nay đều thuộc huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Nhân biết Vương Thông định chia dường đánh úp Lê Triện, hai tướng bèn tương kế tựu kế dụ Thông vào ổ mai phục Tốt Động. Quân Vương Thông thua to, Trần Hiệp, Lý Lượng và 5 vạn quân bị giết, 1 vạn quân bị bắt sống. Thông cùng các tướng chạy về cố thủ ở Đông chép ba đạo quân ra bắc của Lê Lợi chỉ có tổng số 9000 người. Các nhà nghiên cứu cho rằng con số đó chưa chính xác vì các trận đánh của ba đạo quân này đều có quy mô khá lớn và lực lượng quân Minh sang nhập vào khá đông, do đó để giành thắng lợi, 3 cánh quân sau đó lại chia thành 4 chắc phải đông hơn. Với một vài ngàn người khó đương nổi lực lượng đông và mạnh của quân Minh như vậy. Căn cứ sách Đại Việt thông sử, khi quân Minh sắp rút về, Lê Lợi đã bàn với các tướng, đại ý rằng quân Lam Sơn hiện có tổng số 35 vạn, ông dự định sẽ cho 25 vạn về làm ruộng và tuyển lấy 10 vạn làm quân thường trực của triều đình. Qua đó thì thấy những cánh quân ra bắc phải có một vài vạn mỗi cánh ra, theo tác giả Karl Hack, sau khi nhà Hậu Trần thất bại, nhà Minh cho rằng sự bình định ở Giao Chỉ cơ bản đã hoàn thành, nên điều Trương Phụ cùng một phần lớn đạo quân viễn chinh về nước. Việc đánh dẹp và chiếm giữ được giao lại cho các đạo quân phần nhiều gồm binh lính mộ bản xứ và có các chỉ huy là người Việt. Đây có lẽ là lý do sự chiếm đóng của nhà Minh nhanh chóng sụp đổ khi các binh lính người Việt này nổi dậy hoặc hưởng ứng các cuộc nổi dậy sau Lợi được tin thắng trận liền sai Trần Nguyên Hãn, Bùi Bị chia hai đường thủy bộ tiến ra gần Đông Quan. Lập Trần CảoVương Thông thua chạy không dám ra đánh, viện cớ tìm lại tờ chiếu của vua Minh Thành Tổ năm 1407 khi đánh nhà Hồ, có nội dung muốn lập lại con cháu nhà Trần vì nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần nên Minh Thành Tổ lấy danh nghĩa lập lại nhà Trần để mang quân sang đánh nhà Hồ, nay Vương Thông muốn vin vào đó ra điều kiện với Lê Lợi rằng Thông sẽ rút về nếu Lê Lợi lập con cháu nhà Trần làm Lợi vì đại cuộc, muốn quân Minh nhanh chóng rút về nên đồng ý. Ông sai người tìm được Trần Cảo bèn lập làm vua, còn ông tự xưng là Vệ quốc công. Theo sử sách, Trần Cảo tên thật là Hồ Ông, tự xưng là cháu nội vua Trần Nghệ Tông, được tù trưởng châu Ngọc Ma tiến cử với Lê Lợi. Nhưng theo một số sử gia gần đây, việc Trần Cảo mạo xưng hay thật sự là con cháu nhà Trần rất khó xác định, có thể chữ "mạo xưng" mà sử sách ghi là do các sử gia nhà Lê chép vào để giảm uy tín của Thông ngoài mặt giảng hòa nhưng lại sai quân đào hào cắm chông phòng thủ và mật sai người về xin cứu viện. Lê Lợi biết chuyện liền cắt đứt giảng hòa. Vây thành Đông QuanSau khi cắt đứt giảng hoà, Lê Lợi sai các tướng đi đánh chiếm các thành ở Bắc bộ như Điêu Diêu Thị Cầu, Bắc Ninh, Tam Giang Tam Đái, Phú Thọ, Xương Giang phủ Lạng Thương, Kỳ Ôn, không lâu sau đều hạ năm 1427, Lê Lợi chia quân tiến qua sông Nhị Hà, đóng dinh ở Bồ Đề, sai các tướng đánh thành Đông Quan. Ông đặt kỷ luật quân đội rất nghiêm để yên lòng nhân dân. Do đó quân Lam Sơn đi đến các nơi rất được lòng Minh là Thái Phúc nộp thành Nghệ An xin hàng. Lê Lợi sai Thượng thư bộ Lại là Nguyễn Trãi viết thư dụ địch ở các thành khác ra lúc quân Lam Sơn vây thành có vẻ lơi lỏng, quân Minh ở Đông Quan ra đánh úp. Lê Triện tử trận ở Từ Liêm, Đinh Lễ và Nguyễn Xí bị bắt ở Thanh Trì. Đinh Lễ bị giặc giết hại, sau Nguyễn Xí lợi dụng một đêm mưa giông mà trốn thoát được. Chiến thắng Chi Lăng - Xương GiangCuối năm 1427, vua Minh Tuyên Tông điều viện binh cứu Thành sơn hầu Vương Thông, sai An viễn hầu Liễu Thăng mang 10 vạn quân tiến sang từ Quảng Tây; Chinh Nam tướng quân thái phó Kiềm quốc công Mộc Thạnh mang 5 vạn quân từ Vân Nam kéo sang. Đây là hai tướng đã từng sang đánh Việt Nam thời nhà Hồ và nhà Hậu Trần. Theo các nhà nghiên cứu, con số 15 vạn của cả hai đạo quân có thể là nói cao lên, trên thực tế nếu cộng số các đạo quân điều động từ các nơi thì tổng số chỉ có khoảng gần 12 vạn quân và cánh quân chủ lực là của Liễu Minh sử thì tới cuối tháng 1 năm 1427, nhà Minh điều động từ Bắc Kinh, Nam Kinh và khắp các tỉnh miền nam Trung Quốc khoảng quân. Để cung ứng lương thảo, tại các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây hễ nơi nào có dư lương thực đều phải tức tốc vận chuyển về để cung ứng cho đạo quân viễn chinh. Tới cuối tháng 3, nhà Minh lại điều thêm vệ binh từ Vũ Xương và Thành Đô, quân tinh nhuệ từ Nam Kinh và quân từ các tỉnh miền nam Trung Quốc đặt dưới quyền Liễu Thăng và Mộc tin có viện binh, nhiều tướng muốn đánh để hạ gấp thành Đông Quan. Tuy nhiên, theo ý kiến của Nguyễn Trãi, Lê Lợi cho rằng đánh thành là hạ sách vì quân trong thành đông, chưa thể lấy ngay được, nếu bị viện binh đánh kẹp vào thì nguy; do đó ông quyết định điều quân lên chặn đánh viện binh trước để nản lòng địch ở Đông tiên, ông ra lệnh dời người ở những vùng địch đi qua như Lạng Giang, Bắc Giang, Quy Hoá, Tuyên Quang, để đồng không để cô lập địch. Biết cánh Liễu Thăng là quân chủ lực, ông sai Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Văn Linh, Đinh Liệt mang quân phục ở Chi Lăng, lại sai Lê Văn An, Nguyễn Lý mang quân tiếp ứng. Đối với cánh quân Mộc Thạnh, ông biết Thạnh là viên tướng lão luyện, sẽ ngồi chờ thắng bại của Liễu Thăng mới hành động nên hạ lệnh cho Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả cố thủ không trấn giữ biên giới là Trần Lựu liên tục giả cách thua chạy từ Ải Nam Quan về Ải Lưu rồi lại lui về Chi Lăng. Ngày 18 tháng 9 âm lịch, Liễu Thăng đuổi đến Chi Lăng. Trần Lựu lại thua, Thăng đắc thắng mang 100 quân kị đi trước. Ngày 20, Thăng bị phục binh của Lê Sát, Trần Lựu đổ ra chém chết. Tới tận ngày 25 tháng 12 năm 1427, vua Minh mới nhận được tin Liễu Thăng bị tướng thừa dịp xông lên đánh địch, giết hơn 1 vạn quân, chém được Lương Minh, Lý Khánh tự vẫn. Tướng Minh còn lại Hoàng Phúc, Thôi Tụ cố kéo về thành Xương Giang thế thủ nhưng đến nơi mới biết thành đã bị quân Lam Sơn hạ, phải đóng quân ngoài đồng không. Lê Lợi sai Trần Nguyên Hãn chặn đường vận lương, sai Phạm Vấn, Nguyễn Xí tiếp ứng cho Lê Sát cùng sáp đánh, giết 5 vạn quân Minh ở Xương Giang. Hoàng Phúc, Thôi Tụ và hơn 3 vạn quân bị bắt. Do quyết tâm không quy hàng, Thôi Tụ bị giết. Hoàng Phúc bị bắt khi định chạy theo ngả Chi Lăng. Cùng quẫn định tự tự sát thì thuộc hạ quỳ xuống van xin ngăn lại, Lê Lợi biết chuyện khen ngợi, tới ngày 17 tháng 12 năm 1427 thì cho người thả về Trung Quốc theo đường Long Châu, tỉnh Quảng Thạnh nghe tin Liễu Thăng thua to nên kinh hồn, bèn rút chạy. Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đuổi theo chém hơn 1 vạn quân, bắt sống 1000 người ngựa. Theo Minh thực lục, ngày 14 tháng 12 năm 1427, Mộc Thạnh cùng thuộc hạ chạy tới Cao Trại, Thủy Vĩ thì bị quân Lam Sơn phục kích cả trên sông lẫn trên bờ, phải vất vả làm lại thuyền mới đi tiếp được. Hội thề Đông QuanVương Thông nghe tin hai đạo viện binh bị đánh tan, sợ hãi xin giảng hòa để rút quân. Lê Lợi đồng ý cho giảng hòa để quân Minh rút về nước. Ông cùng Vương Thông tiến hành làm lễ thề trong thành Đông Quan, hẹn đến tháng chạp âm lịch năm Đinh mùi 1427 rút quân Lợi đứng tên Trần Cảo là người đang làm vua trên danh nghĩa, sai sứ dâng biểu cho nhà Minh xin được phong. Vua Minh biết Lê Lợi không có ý tôn Cảo nhưng vì bị thua mãi nên đồng ý phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc chạp, Vương Thông rút quân về nước. Các tướng muốn giết địch để trả thù tội ác khi cai trị Việt Nam, Lê Lợi không đồng tình vì muốn giữ hòa khí hai nước, cho nên ông phán “ Phục thù báo oán là cái thường tình của mọi người, nhưng cái bản-tâm người có nhân không muốn giết người bao giờ. Vả người ta đã hàng mà lại còn giết thì không hay. Nếu mình muốn thỏa cơn giận một lúc, mà chịu cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng, thì sao bằng để cho muôn vạn con người sống mà khỏi được cái mối tranh chiến về đời sau, lại để tiếng thơm lưu truyền thiên cổ trong sử xanh. ” — Lê Lợi Thế rồi ông cấp thuyền và ngựa cho quân Minh về. Vương Thông dẫn đầu quân Bộ binh triệt thoái về chính quốc. Ông được Lê Lợi đưa tiễn nồng hậu. Nước Đại Việt không còn một mống quân xâm Minh sử thông giám kỷ sự chép"[Vương] Thông đến kinh đô Bắc Kinh rồi, quần thần nhà Minh tới tấp dâng tấu sớ lên đàn hặc Thông và bọn Mã Anh, Mã Kỳ, Sơn Thọ. Hình quan trong triều làm việc xét hỏi, bọn Thông đều thú nhận cả. Định nghị cho rằng Thông thì phạm tội không giữ quân luật, làm thiệt quân và bỏ mất đất; Sơn Thọ thì phạm tội che chở bênh vực cho bọn phản nghịch, Mã Kỳ thì làm kích động gây biến ở nơi phiên thuộc. Tất cả đều đáng luận vào tội xử tử. Vua Minh xuống chiếu tống giam Thông vào ngục và tịch thu gia sản; còn bọn Mã Anh cũng đều phạt tội có nặng nhẹ khác nhau. Sau đó Lê Lợi sai đưa trả 157 quan lại, 15170 lính thú, và 1200 ngựa; còn số người bị giữ không cho về nước không biết bao nhiêu mà kể".Bình luận về việc Minh Tuyên Tông ra lệnh bãi binh ở Đại Việt, sử gia Trung Quốc là Cốc Vĩnh Thái viết trong Minh sử kỷ sự bản mạtVương Thông lực yếu mà phải xin hoà, Liễu Thăng lại sang rồi bị thua chết. Sau đó lại xuống chiếu sai sứ sang giao hảo và rút quân về, nhục nhã thực bằng Tân, Trịnh hội thề dưới chân thành, hổ thẹn ngang với Kính Đường cắt đất giảng hoà vậyTheo Minh thực lụcNgày 3 tháng 1 năm 1428, Thành sơn hầu Vương Thông, chỉ huy trưởng Giao Chỉ, lập lời thề với Lê Lợi. Thông chưa đợi lệnh Minh triều mà tự ý cho rút hết quân về Quảng Tây bằng đường bộ. Các Thái giám Sơn Thọ và thuộc hạ theo đường thủy về Tần Châu. Dân và quân Minh về nước khoảng người, số còn lại bị Lê Lợi giữ. Vấn đề tù binh người MinhNgày 29 tháng 12 năm 1427, khi Vương Thông rút về nước, Lê Lợi trao trả nhà Minh vừa tù binh, vừa hàng binh. Theo Minh sử, số người trở về nước là số người bị giữ lại không tính giêng năm 1428, nhà Minh có thư sang yêu cầu Lê Lợi trả hết số người và vũ khí ở Đại Việt. Lê Lợi bèn ra lệnh cấm người Việt chứa giấu người Minh, chỉ giấu 1 người cũng xử tội chết, vì vậy người Minh lần lượt ra đầu thú để về 1429, Lê Lợi sai Đào Công Soạn đi sứ, dâng thư và trao trả những người và vũ khí còn lại, bao gồm quân quan 580 người, dân quân và lại 157 người, kỳ quân người, ngựa con Lê Lợi lên ngôi vuaTrong cuốn Việt Nam Sử Lược, nhà sử học Trần Trọng Kim có bình luận "Giặc Minh lục-tục về bắc, bấy giờ mới thật là Nam quốc sơn hà, nam đế cư; nước Nam lại được tự chủ như cũ." Lê Lợi sai Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết về việc đánh giặc Minh, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài thơ Nam quốc sơn "Bình Ngô Đại cáo" trở thành một áng văn chương có giá trị to lớn dưới Vương triều nhà Lê Sơ. Sau khi quân Minh rút về, trên danh nghĩa Trần Cảo là vua Việt Nam. Theo sử sách, đầu năm 1428, Trần Cảo tự biết mình không có công, lòng người không theo nên bỏ trốn vào châu Ngọc Ma vùng núi phía Tây, nhưng không thoát, bị bắt mang về và bị ép uống thuốc độc chết. Một số nhà nghiên cứu nghi ngờ việc Cảo phải tự bỏ trốn mà cho rằng các tướng của Lê Lợi được lệnh sát hại Cảo, hoặc Cảo bị đe doạ phải bỏ trốn. Tuy nhiên, suy cho cùng Trần Cảo cũng chỉ là con bài chính trị để Lê Lợi đối phó với nhà Minh trong một giai đoạn cần thiết. Nhà Minh lấy lý do lập con cháu nhà Trần thực chất chỉ là cớ để đánh nhà Lợi lên ngôi hoàng đế năm 1428, tức là vua Lê Thái Tổ, chính thức dựng lên nhà Hậu Lê. Do chiến công của ông đánh bại quân Minh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, ông trở thành một vị anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam. Phong thưởngTheo sách Đại Việt sử ký toàn thư Bản kỉ, quyển X ghi " Tháng 2, định các mức khen thưởng cho những hỏa thủ và quân nhân của quân Thiết đột có công lao siêng năng khó nhọc ở Lũng nhai bao gồm 121 hạng nhất được ban quốc tính là bọn Lê Vấn, Lê Quy, Lê Dịch, 52 người làm Vinh lộc đại phu, tả Kim ngô vệ Đại tướng quân, tước Thượng trí hạng hai, được ban quốc tính là bọn Lê Bồ, Lê Liệt, Lê Khảo, 72 người, làm Trung lượng đại phu, tả Phụng thần vệ tướng quân, tước Đại trí hạng ba, được ban quốc tính là bọn Lê Lễ 94 người, làm Trung vũ đại phu, Câu kiềm vệ tướng quân, tước Trí tự." Theo "Chức quan chí" trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, tháng 5 năm 1429 khi Lê Thái Tổ phong mọi tước hầu liệt hầu cho các công thần, gồm có 9 bậc Thứ nhất Huyện thượng hầu. Thứ hai Á thượng hầu. Thứ ba Hương thượng hầu. Thứ tư Đình thượng hầu. Thứ năm Huyện hầu. Thứ sáu Á hầu. Thứ bảy Quan nội hầu. Thứ tám Quan phục hầu. Thứ chín Trước phục hầu. Bấy giờ có 93 người được phong tước và khắc biển công thần Những người tên chữ nghiêng đều được cải sang họ Lê của vua, ở đây ghi nguyên họ những người đó Huyện Thượng hầu, 3 người Phạm Vấn, Lê Sát, Phạm Văn Xảo. Á Thượng hầu, 1 người Lê Ngân. Hương Thượng hầu, 3 người Nguyễn Lý, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng. Đình Thượng hầu, 14 người Nguyễn Chích, Lê Văn An, Đinh Liệt, Lê Miễn, Đinh Lễ, Lê Chiến, Lê Khôi, Lê Đính, Lê Chuyết, Trịnh Lỗi, Nguyễn Nhữ Lãm, Lê Sao, Lê Kiệm, Lê Bật. Huyện hầu, 14 người Bùi Bị, Lê Bì, Lê Phủ, Lê Náo, Lê Thụ, Trương Lôi, Trịnh Khả, Lê Bồi, Lê Lang, Nguyễn Xí, Đỗ Khuyển, Đỗ Bí, Lê Quốc Trinh, Lê Bật; Á hầu, 26 người Lê Lạn, Lê Trãi, Quan nội hầu, 16 người Lê Thiệt, Lê Chương,... Quan phục hầu, 12 người Phạm Cuống, Lê Dao, Nguyễn Trãi,... Thượng trí tự trước phục hầu, 4 người Trịnh Khắc Phục, Lê Hài, Các tướng tử trận khi khởi nghĩa chưa kết thúc như Lê Thạch, Lê Lai, Đinh Lễ, Lý Triện cũng đều được truy tặng. Vai trò của hỏa lực trong khởi nghĩa Lam SơnTrong một tiểu luận được viết vào sau năm 2000, một sử gia là Sun Laichen Tôn Lai Thần cho rằng, khi khởi nghĩa, Lê Lợi cũng học hỏi từ cách cầm quân của Trương Phụ, sử dụng hỏa khí rất hữu hiệu để đánh lại quân Minh và giành được những thắng lợi quan trọng, như trận đánh Vương Thông ngày 8/5/1426, quân Lam Sơn đánh bại 10 vạn quân Vương Thông, tiêu diệt trên 5 vạn, bắt sống 1 vạn, khiến "vô số" quân Minh chết đuối Minh sử ghi từ 2 đến 3 vạn quân tử trận. Nếu như trước kia thành Đa Bang thất thủ là điểm khởi đầu cho thất bại của nhà Hồ, thì sau khi khi 8 vạn quân Lam Sơn vây hạ thành Xương Giang có 2000 quân cố thủ, quân Minh cũng không gượng dậy được. Trong số 15 vạn quân tiếp viện nhà Minh gửi sang, có tới 9 vạn quân bỏ mạng trong các trận đánh tiếp theo, dù rằng cả hai tướng chỉ huy, Liễu Thăng và Mộc Thạnh đều đã từng tham gia các chiến dịch chinh phạt An Nam, bản thân Liễu Thăng cũng tử Laichen Tôn Lai Thần tỏ ra thiếu thuyết phục khi ông nêu ra luận điểm Chiến thắng tại trận Tốt Động-Chúc Động khiến quân khởi nghĩa thu được rất nhiều khí cụ của quân Minh, trong đó có hỏa pháo và do đó biết cách sử dụng chiến cụ này, cũng như việc Thái Phúc- viên Đô đốc trấn thành Nghệ An đầu hàng quân Lam Sơn đã khiến người Việt học được từ chính viên tướng đầu hàng này cách chế súng máy để đánh lại kẻ thù đang chiếm đóng đất nước thực tế, các chi tiết về Thái Phúc chỉ được đề cập rất giản lược trong sử Việt Nam. Trong bộ sử chính thức của Trung Quốc-tác phẩm Minh thực lục- cũng chỉ tường thuật là Thái Phúc bày cho Lam Sơn cách đánh thành, không kèm theo chi tiết "bày cách chế tạo súng". Và thuyết phục hơn cả, những tường thuật về diễn biến chiến trận tại thành Xương Giang trong Minh thực lục cũng nói quân Đại Việt hạ được thành sau khi họ tăng cường tấn công, thắng cả ba trận chiến liên tiếp ngay dưới chân thành rồi sau đó dùng thang leo được vào thành. Vai trò của hỏa pháo chỉ được đề cập như 1 công cụ hỗ trợ bên cạnh máy bắn đá, tên có đầu tẩm dầu và câu ra, trong tiểu luận của mình, tác giả Sun Laichen cũng tỏ ra nhầm lẫn khi ông viết rằng "theo sách Đại Việt sử ký toàn thư thì trong trận đánh quyết định, thắng quân 10 vạn quân tiếp viện nhà Minh tại Xương Giang vào cuối năm 1427, quân Đại Việt đã thu được khối lượng chiến lợi phẩm gấp 2 lần so với những gì họ đã thu được sau trận Tốt Động - Chúc Động một năm trước đó cuối năm 1426." Trên thực tế, chi tiết này không có trong sách Toàn lẽ đó, sẽ là xác đáng khi cho rằng trong tiểu luận của mình, Sun Laichen đã đề ra những giả thiết có sức thuyết phục và hấp dẫn nhất định; tuy nhiên những giả thiết và luận điểm của ông không được hỗ trợ bởi những ghi chép chính xác và cụ thể được ghi lại trong chính thế, vai trò của hỏa lực trong thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn vẫn là vấn đề cần được nghiên cứu và tranh luận thêm. Tham khảo Sách trích dẫnTiếng Việt Việt Nam sử lược Đại Việt thông sử Đại Việt Sử ký Toàn thư Viện Sử học 2007, Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Tiếng Anh Edward Dreyer 1982. Early Ming China A political history 1355-1435. Stanford University Press. ISBN 9780804711050. Karl Hack 2006. Colonial Armies in Southeast Asia. New York Routledge. ISBN 0-415-33413-6. John Whitmore 1985. Vietnam Ho Qui Ly and the Ming. New Haven, CT. Nguồn Wikipedia

đặc điểm của cuộc khởi nghĩa lam sơn